Crucian

Cá diếc là loài cá thuộc họ cá chép, hầu như có ở khắp nơi trên nước ta. Đây là loài cá nước ngọt, có thể sống cả ở sông và hồ nước tù đọng. Karasi không có điều kiện sống và thức ăn, vì vậy chúng được tìm thấy ở hầu hết mọi vùng nước. Điều này giải thích giá trị thương mại quan trọng của nó: cá diếc thường được nuôi trong nghề cá.

Cá diếc sống với nhiều người đam mê cá cảnh: cá diếc đuôi vàng trong bể cá gia đình là giống trang trí của cá diếc sông thông thường. Karasem cũng chính là con cá vàng đó trong câu chuyện của AS Pushkin về người đánh cá.

Một sự thật thú vị là những người đóng đinh có khả năng thay đổi giới tính của họ nếu cần thiết. Vì vậy, nếu bạn đặt một vài con cái vào bể cá, thì một trong số chúng cuối cùng sẽ trở thành con đực để tiếp tục nòi giống.

Karas có thân hình bằng phẳng nhưng cao, phủ đầy vảy lớn. Trọng lượng và kích thước của cá phụ thuộc vào môi trường sống và loài của nó. Chiều dài của một số cá thể có thể đạt tới 50-60 cm và cân nặng – 2 kg. Đến tuổi dậy thì vào năm thứ 3-4 của cuộc đời. Cá đẻ trứng vào cuối xuân – đầu hè, đẻ trứng trên tảo. Người đóng đinh sống tới 15 năm.

Đây là những sinh vật rất ngoan cường: con cá bị bắt có thể hít thở không khí trong khí quyển đến một ngày và nếu nó được thả xuống nước trong thời gian này, nó có thể sống lại. Những người tình biết rằng cá diếc thậm chí đã được chải và moi ruột thường nhảy vào chảo.

Thành phần hóa học

Cá diếc là loài cá có độ béo vừa phải. Thịt của nó chứa khoảng 18 g protein và tới 2 g chất béo. Không có carbohydrate trong cá chép. Thành phần thịt này quyết định hàm lượng calo thấp của nó: 100 g cá sống chỉ chứa 87-88 kcal.

Chất béo trong cá diếc là axit béo bão hòa 70% và chứa cholesterol. Tuy nhiên, với tổng lượng chất béo, hàm lượng của chúng trong loài cá này có thể bị bỏ qua vì chúng không mang lại giá trị năng lượng hoặc dinh dưỡng đặc biệt. 100 g cá sống chứa không quá 3% nhu cầu chất béo hàng ngày.

Thú vị hơn là thành phần protein trong thịt cá diếc. Chúng bao gồm tất cả các axit amin thiết yếu cần thiết cho cơ thể con người. 100 g loại cá này chứa gần 30% lượng protein hàng ngày. Điều này có nghĩa là chỉ cần ăn 300 g thịt cá diếc, bạn có thể cung cấp cho cơ thể một lượng protein hoàn chỉnh hàng ngày.

Thịt của loài cá sông này rất giàu vitamin và khoáng chất (đa lượng và vi lượng).

Vitamin và khoáng chất
Họ tênHàm lượng trong 100 g cá sống, miligam
Vitamin A (Retinol)0,02
Vitamin B1 (thiamin)0,06
Vitamin B2 (riboflavin)0,17-0,2
Vitamin PP (axit nicotinic)5,4
Vitamin C (axit ascorbic)1,0
Vitamin E (tocopherol)0,4
kali280,0
Calcium70,0
Photpho220,0
Magnesium25,0
Sodium50,0
phần cứng0,8
Lưu huỳnh180,0
cơ rôm0,055
Chất hóa học0,43
Iốt0,07-0,08

Cá diếc chứa rất nhiều (tính theo % định mức khoáng chất hàng ngày) các nguyên tố đa lượng và vi lượng:

  • florua (lên đến 90%);
  • iốt (lên đến 80%);
  • phốt pho (đến 28%);
  • crom (lên đến 25%);
  • lưu huỳnh (lên đến 18%);
  • kali (lên đến 11%).

Thuộc tính hữu ích

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến cáo nên ăn cá diếc vài lần một tuần để cung cấp protein hoàn chỉnh cho cơ thể. Protein của loài cá này dễ tiêu hóa và đóng vai trò là nguồn cung cấp axit amin thiết yếu, không được sản xuất độc lập trong cơ thể con người hoặc được sản xuất với số lượng nhỏ.

Nước canh nấu từ loài cá này chứa nhiều chất đạm khai thác nên kích thích tiết dịch tiêu hóa, kích thích ăn ngon miệng, thúc đẩy nhu động ruột.

Thịt ít calo khiến loài cá nước ngọt này trở thành nguồn protein dồi dào cho người ăn kiêng.

Một lượng lớn flo và phốt pho trong thịt cá diếc ảnh hưởng đến quá trình cốt hóa và hình thành men răng, vì vậy việc sử dụng chúng rất hữu ích cho cơ thể đang phát triển – trẻ em và phụ nữ đang chờ bổ sung trong gia đình và đang cho con bú. Phốt pho cùng với vitamin B cải thiện hoạt động của não.

Iốt trong thịt cá ở dạng hợp chất hữu cơ có giá trị sinh học cao. Sự hiện diện thường xuyên của các món ăn từ cá diếc trong chế độ ăn uống của con người đảm bảo hoạt động bình thường của tuyến giáp và sản xuất đủ lượng hormone tuyến giáp.

Các món ăn từ cá diếc cũng rất tốt cho người bị tiểu đường. Hàm lượng calo thấp, protein hoàn chỉnh, thiếu carbohydrate, hàm lượng chất béo thấp, cũng như một lượng crom vừa đủ trong loại cá này giúp giảm lượng đường trong máu và tăng độ nhạy cảm của mô tiểu đường với insulin.

Vitamin A, C, E và nhóm B ảnh hưởng đến toàn bộ quá trình trao đổi chất trong cơ thể con người, cải thiện tình trạng của da, tóc và móng, cải thiện tâm trạng.

Có thể có hại

Cá diếc có thể biểu hiện bất kỳ đặc tính có hại nào khi nó được đánh bắt trong các hồ chứa có nước bị nhiễm muối kim loại nặng, thuốc trừ sâu, hạt nhân phóng xạ hoặc phân bón hữu cơ. Do dinh dưỡng của thực vật và sinh vật phù du từ hồ chứa này và sống ở những nơi bị ô nhiễm, một lượng lớn chất có hại cho cơ thể con người tích tụ trong thịt của những con cá này, có thể gây ngộ độc thực phẩm, nhiễm độc, nhiễm trùng đường ruột hoặc nhiễm giun sán.

Để tránh điều này, bạn không thể mua cá ở chợ tự nhiên, dọc theo đường cao tốc hoặc ở những nơi khác mà thực phẩm không qua kiểm tra vệ sinh và thú y.

Không nên sử dụng cá diếc trong trường hợp cá nhân không dung nạp hoặc dị ứng với cá diếc hoặc các sản phẩm từ cá. Cá có chứa phenylalanine nên không được dùng cho người bị phenylketon niệu. Protein của loài cá này khi vào cơ thể người được phân tách có khả năng làm tăng hàm lượng gốc purine trong máu, vì vậy cá diếc không được khuyến cáo sử dụng cho bệnh nhân gút.

Ứng dụng trong y học

Cá diếc là loại cá ít calo, chứa nhiều axit amin, vitamin và khoáng chất thiết yếu, không gây dị ứng. Nó có thể được sử dụng trong hầu hết các bệnh:

  • tim và mạch máu (cải thiện nhịp tim, bình thường hóa huyết áp, không ảnh hưởng đến cholesterol trong máu);
  • hệ tiêu hóa (tăng cảm giác thèm ăn, kích thích tiết dịch tiêu hóa, thúc đẩy quá trình tái tạo tế bào);
  • bổ thận (giảm sưng tấy, kích thích lợi tiểu);
  • máu (tăng mức độ huyết sắc tố, làm giàu thành phần protein của huyết tương).

Trong thời kỳ mang thai, việc sử dụng thịt của loài cá này rất hữu ích vì hàm lượng vitamin và axit amin thiết yếu cao cần thiết cho sự phát triển hài hòa của thai nhi. Trong thời gian cho con bú, ăn nó làm giàu sữa mẹ với protein, vitamin và khoáng chất. Mộc nhĩ có ích cho trẻ nhỏ bị thiếu cân, biếng ăn.

Các món ăn từ loài cá này được khuyến khích sử dụng trong và sau các bệnh truyền nhiễm và soma nặng, phẫu thuật và chấn thương.

Cách chọn

Bạn có thể mua Karasey quanh năm, nhưng cá diếc tháng XNUMX được coi là ngon nhất. Có được để chỉ ăn cá tươi là cần thiết. Lựa chọn tốt nhất sẽ là nếu cá vẫn còn thở, thì không có gì phải phàn nàn về độ tươi của nó. Nếu cá không còn thở thì có thể xác định độ tươi của cá qua các dấu hiệu sau:

  1. Các mang phải có màu hồng hoặc đỏ. Mang bị xỉn màu, xám hoặc xanh là dấu hiệu cá bị ôi thiu.
  2. Trên bề mặt cơ thể phải có một lớp mỏng chất nhầy trong suốt.
  3. Vảy trên cá phải nguyên vẹn, sáng bóng và được giữ chặt.
  4. Bụng phải mềm, lỗ do ấn ngón tay vào thân phải nhanh chóng phẳng ra.
  5. Mắt cá tươi trong suốt, sáng bóng, lồi.
  6. Mùi cá sẽ phát ra từ cá. Ở cá diếc mùi tina thường lẫn với mùi này.

Bảo quản cá mới làm sạch, moi ruột trong tủ lạnh không quá 2 ngày. Nó cũng có thể được đông lạnh. Ở nhiệt độ -18°C, cá diếc có thể bảo quản được tới 6 tháng.

Ứng dụng nấu ăn

Cá diếc là một loại cá linh hoạt trong các phương pháp nấu ăn. Nó được chiên, luộc, hầm, nướng, muối, ướp, hun khói, sấy khô. Nó ngon dưới mọi hình thức. Một chữ “nhưng!”: anh ta rất xương xẩu, vì vậy thịt của anh ta phải được tách rời cẩn thận.

Để món ăn chế biến từ cá diếc không có xương, cần dùng một mẹo nhỏ. Nó bao gồm thực tế là dọc theo toàn bộ cơ thể của mỗi con cá nhỏ, cần phải tạo các rãnh ngang bằng dao cứ sau 0,5-1 cm (tùy thuộc vào kích thước của cá).

Karas hầm trong kem chua

Đây là một món ăn kiêng cổ điển dễ chế biến. Để chuẩn bị, bạn sẽ cần 1 kg cá chép, 0,5 lít kem chua, hành tây, chanh, bột mì để tẩm bột, dầu thực vật, muối và gia vị vừa ăn. Làm sạch cá, moi ruột, rạch khía trên thùng. Rưới nước cốt chanh để khử mùi rỉ (nếu có). Nêm muối, rắc. Để trong 20-30 phút. Trong một chảo đã làm nóng trước với dầu thực vật, chiên cá không xương trong bột mì. Chiên trên lửa lớn không quá 3 phút mỗi mặt, để có màu nâu nhạt. Đặt cá thánh giá lên khay nướng đã phết dầu thực vật, phủ một lớp hành tây cắt khoanh lên trên, rưới kem chua lên trên. Nướng trong lò ở 180°C trong 20-30 phút cho đến khi bánh có màu vàng nâu.

Kết luận

Cá diếc là loài cá nước ngọt giá cả phải chăng và rất hữu ích, có thể và nên có trên mỗi bàn ăn vài lần một tuần. Thịt của cô là nguồn cung cấp protein, khoáng chất và vitamin cao cấp.

Việc sử dụng nó trong thực phẩm được thể hiện ở mọi lứa tuổi và hầu hết mọi tình trạng sức khỏe. Đồng thời, nó có hàm lượng calo thấp nên có thể dùng để giảm cân.

Cần thận trọng khi cho trẻ em ăn loài cá này vì thịt của nó rất nhiều xương. Chỉ cần mua nó ở những nơi buôn bán thực phẩm được phép để tránh mua cá từ các vùng nước bị ô nhiễm. Không nên sử dụng với bệnh gút.

Bình luận