Mycena Vulgaris (Mycena Vulgaris)

Hệ thống học:
  • Phân bộ: Basidiomycota (Basidiomycetes)
  • Phân ngành: Agaricomycotina (Agaricomycetes)
  • Lớp: Cơ quan sinh dục (Agaricomycetes)
  • Phân lớp: Agaricomycetidae (Agaricomycetes)
  • Đặt hàng: Agaricales (Agaric hoặc Lamellar)
  • Họ: Mycenaceae (Mycenaceae)
  • Chi: Mycena
  • Kiểu: Mycena Vulgaris (Mycena Vulgaris)

Nấm ngọc cẩu (Mycena vulgaris) là một loại nấm nhỏ thuộc họ Mycena. Trong các chuyên luận khoa học, tên của loài này là: Mycena vulgaris (Pers.) P. Kumm. Có những tên đồng nghĩa khác cho loài này, đặc biệt là Mycena vulgaris trong tiếng Latinh.

Mô tả bên ngoài của nấm

Đường kính của nắp trong mycena thông thường là 1-2 cm. Ở nấm non, nó có hình dạng lồi, sau đó trở thành giống hình nón hoặc hình nón rộng. Đôi khi có thể nhìn thấy một vết lao ở phần trung tâm của nắp, nhưng hầu hết nó được đặc trưng bởi một bề mặt lõm xuống. Phần rìa mũ của loại nấm này nhăn lại và có màu nhạt hơn. Bản thân nắp trong suốt, có các sọc nổi rõ trên bề mặt, nó có màu xám nâu, nâu xám, nhạt hoặc vàng xám. Đặc trưng bởi sự hiện diện của một con mắt nâu.

Các phiến nấm rất hiếm, chỉ có 14-17 phiến đạt đến bề mặt của thân nấm. Chúng có hình vòm cung, màu nâu xám hoặc trắng, mép mỏng. Chúng có tính linh hoạt tuyệt vời, chạy xuống chân. Bột bào tử nấm có màu trắng trong.

Chiều dài của chân đạt 2-6 cm, và độ dày của nó là 1-1.5 mm. Nó có đặc điểm là hình trụ, bên trong - rỗng, rất cứng, khi sờ vào - mịn. Màu của thân cây màu nâu nhạt ở trên, trở nên đậm hơn ở dưới. Ở phần gốc, nó được bao phủ bởi những sợi lông trắng cứng. Bề mặt của chân có chất nhầy và dính.

Cùi của mycena thông thường có màu trắng, không có mùi vị và rất mỏng. Mùi của cô ấy không biểu cảm, nó giống như một mùi hiếm có. Bào tử có hình elip, là cơ sở 4 bào tử, được đặc trưng bởi kích thước 7-8 * 3.5-4 micron.

Nơi sống và thời kỳ đậu quả

Thời kỳ đậu quả của nấm mộc lan (Mycena vulgaris) bắt đầu vào cuối mùa hè và tiếp tục trong suốt nửa đầu mùa thu. Nấm thuộc loại sinh dưỡng lứa, mọc thành từng đám, nhưng quả thể không mọc xen kẽ với nhau. Bạn có thể gặp mycena bình thường trong các khu rừng hỗn giao và lá kim, ở giữa những cây kim đã rụng. Các loài mycenae được trình bày phân bố rộng rãi ở Châu Âu. Đôi khi mycena phổ biến có thể được tìm thấy ở Bắc Mỹ và các nước châu Á.

Khả năng ăn được

Nấm mycena thông thường (Mycena vulgaris) bị phân loại nhầm là không ăn được. Trên thực tế, nó không độc, và việc sử dụng nó trong thực phẩm không phổ biến do kích thước quá nhỏ, không cho phép chế biến chất lượng cao nấm sau khi thu hoạch.

Các loài tương tự, các đặc điểm khác biệt từ chúng

Trên lãnh thổ của nước ta, một số giống nấm mycena phổ biến, đặc trưng bởi bề mặt nhầy của thân và nắp, và cũng giống với mycena thông thường (Mycena vulgaris). Chúng tôi liệt kê các giống nổi tiếng nhất:

  • Mycena là chất nhầy. Nó có nhiều phân loài có một đặc điểm chung, đó là màu hơi vàng của thân mỏng. Ngoài ra, nấm nhầy, theo quy luật, có các bào tử lớn kích thước 10 * 5 micron, nấm có các phiến bám vào thân.
  • Mycena dewy (Mycena rorida), hiện nay đồng nghĩa với Roridomyces dewy. Loại nấm này thích phát triển trên gỗ thối của cây rụng lá và cây lá kim. Trên chân của nó có một màng nhầy, và các bào tử lớn hơn các bào tử của nấm sợi thông thường. Kích thước của chúng là 8-12 * 4-5 micron. Basidia chỉ có hai mảnh.

Tên tiếng Latinh của mycena vulgaris (Mycena vulgaris) bắt nguồn từ từ tiếng Hy Lạp mykes, có nghĩa là nấm, cũng như thuật ngữ cụ thể trong tiếng Latinh là vulgaris, được dịch là bình thường.

Mycena Vulgaris (Mycena Vulgaris) được liệt kê ở một số quốc gia trong Sách Đỏ. Trong số các quốc gia như vậy có Đan Mạch, Na Uy, Hà Lan, Latvia. Loại nấm này không được liệt kê trong Sách đỏ của Liên bang.

Bình luận