Linh sam Feoclavulina (Phaeoclavulina abietina)

Hệ thống học:
  • Phân bộ: Basidiomycota (Basidiomycetes)
  • Phân ngành: Agaricomycotina (Agaricomycetes)
  • Lớp: Cơ quan sinh dục (Agaricomycetes)
  • Phân lớp: Phallomycetidae (Velkovye)
  • Đặt hàng: Gomphales
  • Họ: Rau má (Gomphaceae)
  • Chi: Phaeoclavulina (Feoclavulina)
  • Kiểu: Phaeoclavulina abietina (linh sam Feoclavulina)

:

  • linh sam ramaria
  • ong bắp cày
  • Sừng vân sam
  • vân sam ramaria
  • Cây thông
  • Cây linh sam merisma
  • Cây thông hydnum
  • Ramaria abietina
  • Clavariella abietina
  • Clavaria ochraceovirens
  • Clavaria virescens
  • Ramaria virescens
  • Ramaria ochrochlora
  • Ramaria ochraceovirens var. bệnh parvispora

Ảnh và mô tả cây linh sam Phaeoclavulina (Phaeoclavulina abietina)

Như thường lệ với nấm, Phaeoclavulina abietina “đi bộ” từ thế hệ này sang thế hệ khác vài lần.

Loài này được Christian Hendrik Persoon mô tả lần đầu tiên vào năm 1794 với tên gọi Clavaria abietina. Quele (Lucien Quélet) đã chuyển nó sang chi Ramaria vào năm 1898.

Phân tích phân tử vào đầu những năm 2000 cho thấy, trên thực tế, chi Ramaria là loài đa chủng (Polyphyletic trong phân loại sinh học là một nhóm liên quan đến mối quan hệ chặt chẽ hơn của các phân nhóm cấu thành của nó với các nhóm khác không có trong chi này được coi là đã được chứng minh) .

Ở các nước nói tiếng Anh, Horned Spruce được gọi là “san hô nhuộm xanh” - “san hô xanh lục”. Trong ngôn ngữ Nahuatl (nhóm Aztec) nó được gọi là "xelhuas del veneno", có nghĩa là "cây chổi độc".

Quả thể san hô. Các chùm "san hô" nhỏ, cao 2-5 cm và rộng 1-3 cm, phân nhánh tốt. Cành riêng mọc thẳng, đôi khi hơi dẹt. Gần phía trên cùng, chúng được chia đôi hoặc được trang trí bằng một loại "búi".

Thân cây ngắn, màu xanh ô liu đến nhạt. Bạn có thể thấy rõ các sợi nấm và thân rễ màu trắng mờ đi vào lớp nền.

Màu sắc thân quả theo tông màu xanh lục-vàng: màu ô liu đến màu đất son xỉn, màu được mô tả là “vàng già”, “màu vàng son” hoặc đôi khi là ô liu (“ô ​​liu hơi xanh đậm”, “ô liu hồ”, “ô liu hơi nâu”, “ ô liu ”,“ citrine sắc ”). Khi tiếp xúc (áp lực, đứt gãy) hoặc sau khi thu gom (khi được bảo quản trong túi kín), nó nhanh chóng có màu xanh lam đậm (“xanh lá cây trong chai”), thường từ gốc dần đến ngọn, nhưng luôn luôn đầu tiên ở điểm tác động.

Pulp dày đặc, da, cùng màu với bề mặt. Khi khô, nó có độ giòn.

Mùi: thoang thoảng, được miêu tả là mùi đất ẩm.

Nếm thử: mềm, ngọt ngào, có hậu vị đắng.

bột bào tử: màu cam đậm.

Cuối hè - cuối thu tùy vùng, từ giữa cuối tháng XNUMX đến tháng XNUMX-XNUMX.

Mọc trên thảm mục lá kim, trên đất. Nó khá hiếm, trong các khu rừng lá kim trên khắp vùng ôn đới của Bắc bán cầu. Hình thành nấm rễ với cây thông.

Không ăn được. Nhưng một số nguồn chỉ ra rằng nấm "có thể ăn được", chất lượng kém, cần phải luộc sơ qua. Rõ ràng, khả năng ăn được của linh sam Feoclavulina phụ thuộc vào dư vị đắng như thế nào. Có lẽ sự hiện diện của vị đắng phụ thuộc vào điều kiện trồng trọt. Không có dữ liệu chính xác.

Ramaria thông thường (Ramaria Invalii) có thể trông giống nhau, nhưng thịt của nó không đổi màu khi bị thương.


Tên “Spruce Hornbill (Ramaria abietina)” được chỉ định là từ đồng nghĩa của cả Phaeoclavulina abietina và Ramaria Invalii, trong trường hợp này chúng là từ đồng âm và không cùng loài.

Ảnh: Boris Melikyan (Fungarium.INFO)

Bình luận