Гиропорус синеющий (Gyroporus cyanescens)

Hệ thống học:
  • Phân bộ: Basidiomycota (Basidiomycetes)
  • Phân ngành: Agaricomycotina (Agaricomycetes)
  • Lớp: Cơ quan sinh dục (Agaricomycetes)
  • Phân lớp: Agaricomycetidae (Agaricomycetes)
  • Đặt hàng: Boletales (Boletales)
  • Họ: Gyroporaceae (họ Gyroporaceae)
  • Chi: Gyroporus
  • Kiểu: Gyroporus cyanescens (Гиропорус синеющий)
  • Boletus màu xanh
  • Vết bầm tím
  • Boletus cyanescens
  • Một loại nấm bị hạn chế
  • Một chiếc giường hẹp
  • Suillus cyanescens
  • Suillus cyanescens
  • Leucoconius cyanescens

Cái tên phổ biến “Bruise” truyền tải chính xác hành vi của nấm ở mức độ tổn thương mô nhỏ nhất, cho dù đó là vết cắt, vết đứt hay chỉ là một cú chạm: nó chuyển sang màu xanh lam. Sự thay đổi màu sắc nhanh và rất rõ ràng, khiến cho việc phân biệt màu xanh Gyroporus với các loại bolete khác gần như không thể nhầm lẫn.

cái đầu: 4-12 cm, đôi khi đường kính lên tới 15 cm. Lúc đầu lồi, sau lồi rộng hoặc có khi gần như phẳng theo tuổi. Khô, thô ráp hoặc đôi khi có vảy xỉn màu, phủ đầy lông mịn. Màu rơm hoặc màu nâu nhạt, màu vàng nâu. Chuyển sang màu xanh khi chạm vào.

màng trinh: hình ống. Bề mặt các lỗ (ống): từ màu trắng đến hơi vàng, màu rơm, khi ấn vào lập tức chuyển sang màu xanh. Chứa 1-3 lỗ tròn trên 1 mm. Ống có độ sâu lên tới 18 mm.

Chân: Dài 4-12 cm, dày 1-3 cm. Thậm chí ít nhiều hoặc hơi dày lên ở phần giữa, nó có thể thu hẹp về phía dưới. Ở mẫu còn non, nó được hình thành, khi già đi, hình thành các lỗ sâu ở thân, ở mẫu trưởng thành nó gần như rỗng. Nhìn bề ngoài, chân được chia thành hai phần: ở phía trên, ngay dưới nắp, nhẹ, mịn. Bên dưới – cùng màu với mũ, mờ, hơi có lông mu. Không có vòng, nhưng phần trên và phần dưới của nắp được tách biệt rõ ràng đến mức bạn vô tình tìm kiếm vị trí của chiếc nhẫn.

Pulp: màu trắng đến vàng nhạt, giòn, giòn. Nó chuyển sang màu xanh rất nhanh khi cắt.

Ngửi và nếm: nấm yếu, đôi khi có mùi vị dễ chịu, bùi bùi.

Phản ứng hoá học: Âm tính amoniac hoặc màu cam nhạt trên bề mặt nắp, âm tính đến màu nâu trên thịt. KOH âm tính đến màu cam trên bề mặt nắp, âm tính đến màu nâu trên thịt. Muối sắt có màu ô liu đến gần như đen trên thịt.

Dấu ấn bột bào tử: màu vàng nhạt.

Các tính năng hiển vi: bào tử có kích thước thay đổi, nhưng chủ yếu là 8-11 x 4-5 µm (tuy nhiên, thường nhỏ tới 6 x 3 µm và lớn tới 14 x 6,5 µm). Mềm mại, mịn màng, hình elip. Màu vàng trong KOH.

Gyroporus màu xanh lam thích hợp cho con người sử dụng. Nó được sử dụng ở dạng khô, ngâm và luộc. Dữ liệu về chất lượng hương vị trái ngược nhau: có người tin rằng nó không thua kém nấm trắng, có người cho rằng chất lượng hương vị “rất tầm thường”.

Các nguồn khác nhau đề cập đến mycorrhiza với các loài rụng lá và các loài khác nhau, chẳng hạn như bạch dương, hạt dẻ, sồi. Thậm chí còn có giả định về bệnh nấm rễ với cây lá kim, với cây thông. Tuy nhiên, như Singer (1945) lưu ý, Gyroporus cyanoticus mọc “trong rừng và thậm chí trên đồng cỏ” và “dường như không hình thành nấm rễ thường xuyên, ít nhất là không có sự ưu tiên nào đối với bất kỳ cây rừng nào đã được chứng minh, vì đôi khi quả thể hình thành đủ xa.” từ bất kỳ cây nào.”

Cây mọc đơn lẻ, rải rác hoặc thành từng nhóm nhỏ, thường mọc trên đất cát, đặc biệt là đất có cấu trúc bị đứt gãy (nền đường, lề đường, khu công viên,...)

Mùa hè và mùa thu. Loại nấm này khá phổ biến ở Mỹ, Châu Âu, Nước ta.

Được coi là một loài quý hiếm. Gyroporus màu xanh được ghi vào Sách đỏ nước ta.

Bài báo và thư viện đã sử dụng ảnh từ các câu hỏi nhận dạng: Gumenyuk Vitaly và những người khác.

Bình luận